Thứ Tư, 16 tháng 7, 2014

Nhà thờ đá phát diệm sự hòa quyện kiến trúc đông- tây
                                                   
                                                                  

Cách thành phố Ninh Bình 28km về phía Nam, Nhà thờ toạ lạc trên một khu đất rộng khoảng 117m, dài 243m, giữa trung tâm thị trấn Phát Diệm, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình. Đầu thế kỷ XIX nơi đây chỉ là vùng đất bồi với bùn lầy và ngút ngàn cỏ sậy. Năm 1828, Nguyễn Công Trứ được triều đình nhà Nguyễn ở Huế phái ra Bắc với chức “Dinh Điền Sứ” đã khai phá lập ra vùng đất này. Kim Sơn là “núi vàng” và Phát Diệm có nghĩa là “Phát sinh ra cái đẹp”.

Quần thể Nhà thờ đá Phát Diệm được xây dựng nhiều hạng mục khác nhau như: ao hồ, tượng đài, Phương Đình, Nhà thờ lớn, Nhà nguyện kinh thánh Rô Cô, Nhà nguyện kinh trái tim chúa, Nhà nguyện kinh thánh Giu-Se, Nhà nguyện kinh thánh Phê-Rô và các hang đá nhân tạo... Tất cả được bố trí trên một mặt bằng tổng thể hình chữ “Vương”, không gian đóng mở theo phong cách tạo cảnh phương Đông rất rõ nét, trước có hồ, sau có núi, không những làm cho phong cảnh thêm hữu tình mà còn thể hiện tư duy, quan niệm của người Á đông “Tiền có thuỷ, hậu có sơn”, mọi việc sẽ diễn ra tốt đẹp, an lành cho cuộc sống hiện tại và mai sau.


Phương Đình
Nhà thờ được xây dựng trong suốt 24 năm (1875 - 1899) với vô vàn khó khăn, phương tiện làm việc thô sơ. Hàng ngàn tấn đá, có phiến nặng tới 20 tấn, hàng trăm cột gỗ lim có cây cột dài tới 12m, đường kính 2,4m, nặng tới 7 tấn... được vận chuyển từ Thanh Hoá, Nghệ An và nhiều nơi khác xa hàng trăm cây số về Phát Diệm. Phương Đình là hạng mục công trình được hoàn thành sau cùng vào năm 1899, là điểm nhấn, kiệt tác về nghệ thuật, kiến trúc. Phương Đình có nghĩa là “Nhà vuông” thay vì vút cao trên bầu trời theo hình tháp vuông hoặc tròn thường thấy ở các thánh đường phương Tây, Phương Đình mang hình dáng của một ngôi đình làng rộng lớn, kích thước gần như vuông, chiều ngang 21m, sâu 17m, cao 25m. Tầng dưới lớn nhất, nếu bỏ đi hai lối lên gác thì phần giữa có hình dáng của một cổng tam quan trong kiến trúc truyền thống, được xây dựng bằng đá xanh với kỹ thuật thủ công tinh xảo. Trên các vách có phù điêu bằng đá tạc một số vị thánh, hai vách ngoài của Phương Đình là những chấn song đá hình câu trúc, trên các vách ngoài của tầng dưới có những phù điêu tạc sự tích chúa Giê-Su từ khi vào thành Giêrusalem đến khi lên trời.
Tầng trên của Phương Đình được dựng 5 khối tháp, trên đỉnh của 4 khối tháp ở 4 góc là tượng 4 vị thánh chép 4 sách Tin mừng được đặt giống như búp sen hay bình cam lộ thường thấy trên đỉnh của những mái đình, chùa cổ của làng quê Việt. Khối tháp trọng tâm cũng giống như 4 khối tháp góc, đầu có 3 tầng cấu trúc theo kiểu lầu thức, lợp ngói mũi hài, gác chuông được đặt một quả chuông nam có chiều cao 1,90m, thể hiện sự kết hợp hài hoà, tinh tế của hai nền văn hoá Đông - Tây.


Nhà thờ chính tòa
Nhà thờ lớn: được xây dựng vào năm 1891, chỉ trong vòng 3 tháng nhưng công việc chuẩn bị, sắm sửa vật liệu và trị chân móng đã kéo dài cả chục năm trước đó. Điểm chung trong kiến trúc nhà thờ Phát Diệm giống với nhà thờ ở Châu Âu đó là lòng Nhà thờ dài 74m, còn lại đều thiết kế theo kiểu cách của đạo Phật. Sự diễn cảm trong không gian thờ tự cũng sử dụng rất nhiều cách trình bày truyền thống. Lòng nhà thờ được chia làm 10 gian sử dụng 9 bộ vì giá nghiêng-chồng giường với 6 hàng cột mang đậm chất kết cấu kiến trúc dân gian, với không gian rộng lớn trong kiến trúc nhà thờ ở phương Tây nhờ bề ngang (21m và tầm cao là 15m), thể hiện sự tài hoa của người thiết kế xây dựng. Hệ thống mái được phân thành 2 tầng, ngắt quãng bởi cửa sổ, vừa lấy ánh sáng vừa tạo độ vút cao cho mái. Đây chính là dạng mái chồng diêm trong kiến trúc truyền thống. Cuối nhà thờ, chái kiệu có cấu tạo là một khối sâu bằng đá hoa cương, phần xây cuốn vòm tạo thành 5 lối vào nhà thờ, mặt bằng và mặt đứng đều giật cấp với đỉnh cao ở lối chính giữa và thấp dần về hai bên. Phía trên tháp lợp ngói mũi hài, với đầu đao cong lượn thanh thoát, gợi lên sự phối hợp tinh tế của hai lối kiến trúc Đông Dương - Gotic. Một điểm nữa cần nhắc tới là những mảng sơn son thếp vàng trên đồ thờ bằng gỗ trong nhà thờ gợi lên một không gian thờ truyền thống của dân tộc Việt.


Nhà thờ Trái tim đức mẹ (Nhà thờ đá)
Nhà thờ trái tim Đức Mẹ (Nhà thờ đá): được xây dựng đầu tiên vào năm 1883, có chiều dài 15,30m, rộng 8,50m, cao 6m. Nền, cột, xà, tường, chấn song, tháp, bàn thờ đều bằng đá, do đó người Phát Diệm quen gọi là Nhà thờ đá. Mặt tiền của nhà thờ gồm một toà Đức mẹ ở giữa với hai tháp hai bên, tháp kết cấu 5 tầng, có đường nét giống với tháp Bút ở hồ Hoàn Kiếm, Hà Nội. Phía trong nhà thờ được làm bằng đá cẩm thạch với bố cục, đường nét thanh thoát, nhẹ nhàng, hai bên là những chấn song đá và những bức chạm thông phong. Trên bàn thờ chính là nhà tạm bằng gỗ chạm, sơn son, thếp vàng và tượng Đức mẹ bằng đá. Bên ngoài nhà thờ có những bức chạm thông phong hình chim Phượng hàm thư, quả là một kiệt tác, đã có du khách gọi nhà thờ này là “Viên ngọc” trong quần thể Thánh đường Phát Diệm.


Có thể nói, quần thể Thánh đường Phát Diệm là sự giao thoa, sự kết hợp hài hoà, tinh tế của lối kiến trúc nhà thờ phương Tây và kiến trúc truyền thống phương Đông. Công giáo mang đức tin đến cho con người nhưng phong cách kiến trúc, không gian thờ tự mang đậm hình ảnh mái đình, ngôi chùa vốn đã ăn sâu vào tiềm thức của người Á Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng, tạo nên sự bình an, che chở, đây cũng là biểu tượng của sự gặp gỡ giữa công giáo và truyền thống tín ngưỡng của dân tộc Việt Nam. Nhà thờ Phát Diệm còn là điểm tham quan du lịch hấp dẫn của du khách trong nước và quốc tế, là điểm nhấn trong bức tranh toàn cảnh về di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh của quê hương Ninh Bình.










                                    Gia Viễn - một vùng quê (Ảnh trên con đê khu BTTN Vân Long)

Làng  nổi Kênh Gà như một ốc đảo hẻo lánh trong khu vực đá vôi vùng chiêm  trũng Gia Viễn, được bao bọc bởi hệ thống sông Hoàng Long. Làng Kênh Gà  có lợi thế trên bến dưới thuyền, dân làng rất thạo sông nước nhờ nghề  đánh bắt cá và đưa du khách vào suối nóng. Hàm lượng muối khoáng Kênh Gà  rất tốt cho việc sản xuất nước giải khát, để trị bệnh đường ruột. Sau  khi tắm nước suối Kênh Gà, du khách sẽ cảm thấy cơ thể mình trắng nõn,  hồng hào như vừa xông thuốc tiên. Nếu nghỉ một đêm ở đây, du khách chắc  chắn sẽ tận hưởng được vẻ đẹp thanh bình yên ả của vùng quê châu thổ  này.

Hoàng Long mùa nước - Con sông có tên gọi gắn với truyền thuyết Rồng Vàng
Ngoài đê sông Hoàng Long là vùng sinh thái nước non hoà quyện, mùa nước  lụt nơi đây loang ra mênh mông như vịnh Hạ Long. Các dãy núi ngụp lặn nô  đùa với bóng của mình giữa biển nước vàng óng mênh mông khiến làng mạc  bị cô lập thành các đảo nhỏ. Xa xa, Trời nước như giao hoà với nhau  thành một bức tranh thuỷ mặc tuyệt đẹp. Khách viễn du như muốn hoà quyện  với thiên nhiên để cho tâm mình dạt dào, bay bổng. Chùa Địch Lộng,  thuộc xã Gia Thanh được người xưa mệnh danh là “Nam thiên đệ tam động”  cũng nằm trên vùng thiên nhiên Kẽm Trống như thế. Tại đây, du khách sẽ  có cảm giác như lạc vào cõi trùng điệp của nhũ đá với muôn hình vạn  trạng và ngoạn mục vô cùng. Mỗi không gian của vách động, trần động là  một bức tranh nghệ thuật, những nét trạm khắc tuyệt vời của thiên nhiên,  chúng đạt đến mức tinh xảo và hoàn mỹ mà con người không thể nào làm ra  được. Đi hết hang Tối là đến hang Sáng, vì ở trên cao cửa hang Sáng  thắt hẹp lại, có khoảng lộ thiên, khi có gió thổi mạnh vào trong động,  âm thanh diệu kỳ sẽ phát ra nghe như tiếng sáo. Vì vậy động mang tên là  Địch Lộng để du khách biết đây là chiếc “sáo gió” khổng lồ.
Hiếm có  vùng đất nào trên dải đất Việt Nam lại hiến dân cho tổ quốc cả Vua và  Thánh mà Gia Viễn nhân kiệt này lại có được điều đó. Đền thờ Đức Thánh  Nguyễn thuộc hai xã Gia Thắng và Gia Tiến, trên quê cha đất tổ của  người. Nguyễn Minh không tên huý là Nguyễn Chí Thành. Năm 11 tuổi ông  xuất gia thụ giáo đạo phật với Từ Đạo Hạnh. Ông trở thành nhà tu hành  với pháp danh Minh Không rồi lập nên nhiều chùa và trụ trì ở nhiều chùa  như chùa Quỳnh Lâm ở Đông Triều, Quảng Ninh; chùa Keo ở Thái Bình, Nam  Định; chùa Địch Lộng, chùa Bái Đính ở Ninh Bình...
Theo truyền thuyết  dân gian thì chùa Quỳnh Lâm do nhà sư Nguyễn Minh Không trụ trì và chính  nhà sư đã đúc một pho tương di lặc bằng đồng cao tới 6 trượng, được coi  là một ''Thiên Nam tứ khí'', bốn báu vật bằng đồng đầu tiên của Việt  Nam tại thời Lý. Chùa Cổ Lễ cũng do thánh Nguyễn sáng lập là một danh  thắng đẹp của tỉnh Nam Định. Nơi đây còn nhiều di vật quý hiếm như đại  hồng chung, một trống đồng thời Lý và một túi đựng đồng. Nguyễn Minh  Không là ông tổ của nghề đúc đồng, ngoài 166 chùa ở khắp Việt Nam thờ  phụng, ông cũng được thờ tại nhiều làng nghề đồng nổi tiếng như Đông Sơn  (Thanh Hoá), Ý Yên, Nam Trực (Nam Định), Lò Đúc, Ngũ Xá (Hà Nội).  Nguyễn Minh Không còn là một pháp sư tài danh lẫy lừng. Khi vua Lý Thần  Tông mắc trọng bệnh tưởng không thể nào qua khỏi, Ông đã được mời về  triều để chữa bệnh cho vua. Chính vì thế mà ông được phong là Quốc sư  triều Lý với đền thờ gần hồ Hoàn Kiếm do nhà Lý xây dựng hiện vẫn còn.  Người ta nhắc đến Lý Quốc Sư là để chỉ riêng ông. Chính vì vậy mà ông  được nhân dân tôn sùng và phong Thánh. Nếu như Hưng Đạo Vương là đức  thánh Trần thì Lý Quốc Sư là đức thánh Nguyễn. Ông cũng được coi là một  trong 6 vị thần “tứ bất tử” của tín ngưỡng Việt Nam. Dân gian thường có  câu: '' Đại Hữu sinh Vương - Điềm Giương sinh Thánh'' để ca ngợi vùng  quê Gia Viễn nhân kiệt của ông đã sinh ra những bậc thánh hiền.
                                             
Khoảng năm 1121, Nguyễn Minh Không đã về quê hương mình xây dựng ngôi  chùa Viên Quang. Khi ông mất, nhân dân Đàm Xá biến Viên Quang tự thành  đền thờ ông. Trải qua một số lần trùng tu, ngôi đền còn lại dáng vẻ như  ngày nay. Đền có hai cột cờ hai bên cao vời vợi. Đầu tiên là Vọng Lâu.  Bên hồi của Vong Lâu có cây đèn đá, cao hơn một mét, biểu tượng cái đèn  của Nguyễn Minh Không ngày xưa ngồi thắp sáng để ngồi thiền tịnh. Huyền  thoại kể rằng, cây đèn tự nhiên mọc lên, Nguyễn Minh Không thường đêm  đêm ngồi bên cây đèn. Các loài chim, loài thú về chầu xung quanh, ánh  sáng cây đèn chiếu sáng đến tầng mây trên không. Chính vì thế nhân dân  tôn hiệu ông là Minh Không và từ đó trở đi tục gọi thiền sư là Minh  Không. Quanh đền có nhiều cây cổ thụ tán là xanh tươi và những cây cảnh  điểm trang cho đền, tạo thành một bức tranh phong cảnh làng quê thâm  nghiên, tĩnh mịch. Chỉ cách đền 1 km, qua một cây cầu nhỏ, bên kia sông  Hoàng Long là chùa Bái Đính kỷ lục Việt Nam đang là điểm đến hấp dẫn với  du khách trong nước bởi những kỷ lục chưa từng thấy ở Việt Nam. Ngôi  chùa này chứa đựng nhiều huyền thoại và gắn bó mật thiết với cuộc đời  cũng như sự nghiệp của Vua Đinh và Thánh Nguyễn. Chắc chắn nơi đây sẽ là  một vùng du lịch văn hoá cực kỳ hấp dẫn của Việt Nam và thế giới.


Vân Long là miền đất huyền thoại, một vùng du lịch tuyệt đẹp, là khu bảo  tồn thiên nhiên đất ngập nước lớn nhất đồng bằng – châu thổ Bắc bộ. Non  nước Vân Long có diện tích trên 3.000 ha, nằm trên địa phận 7 xã thuộc  huyện Gia Viễn. Trong khu rừng Vân Long có 457 loài thực vật bậc cao.  Đặc biệt có 8 loài được ghi trong sách Đỏ Việt Nam: kiêng, lát hoa, Tuế  lá rộng, Cốt Toái Bổi, Sắng, Bách Bộ, Mã Tiền hoa tán. Về động vật có 39  loài, có 12 loài động vật quý hiếm như: Voọc quần đùi trắng chiếm số  lượng lớn nhất ở Việt Nam, gấu ngựa, sơn dương, cu li lớn, khỉ mặt  đỏ.... trong các đông vật bò sát có chín loài được ghi trong sách Đỏ  Việt Nam như: rắn hổ chúa, kỳ đà hoa, trăn đất, rắn ráo trâu, tắc kè...  Đứng trên mặt đê, du khách thấy mặt nước là một vùng đầm có không gian  rộng lớn. Nhìn xa các dẫy núi sừng sững tạo thành một bức tường thành  thiên nhiên hùng vĩ. Một cảnh thành xây khói biếc, mây phơi bóng vàng  hiện ra. Nước ở đây mênh mông phẳng lặng, không có sóng to gió lớn, mang  phong cảnh một miền quê yên ả của hương đồng gió nội hiền hoà.

Du  khách xuống thuyền đi thăm Vân Long. Đây là núi Nghiên, núi Hòm Sách,  núi Đá Bàn, núi Mèo Cào. Kia là núi Cô Tiên, núi Voi Dựng, núi Cánh  Cổng, núi Mồ Côi. Kế tiếp là một mỏm núi giống như mâm xôi là lộc trời  ban tặng đầy đủ ấm no giữa thanh thiên bạch nhật. Mỗi trái núi là huyền  thoại hấp dẫn. Non nước Vân Long chính là nơi du lịch sinh thái rất tốt,  cũng sẽ là hiện trường nghiên cứu, học tập cho các nhà khoa học, các  sinh viên, học sinh trong và ngoài nước muốn đến nghiên cứu và học tập  về vùng đất ngập nước nội đồng của Việt Nam. Vào mùa khô, Vân Long là  địa điểm trú đông của nhiều loài chim di cư từ phương bắc. Có tới hàng  nghìn con gà lôi, diệc xám, hàng vạn con cò ngàng lớn, mòng két, và hàng  triệu con cò bợ, cò trắng, vạc tới kiếm ăn. Lênh đênh trên con thuyền  nan dọc ngang khu đầm, giữa những dải núi đá kỳ thú ấy, bạn có thể quan  sát kỹ những loài thuỷ sinh phong phú xao động dưới làn nước, ngắm những  cánh cò chấp chới trên ngọn cỏ năn, cỏ lác mọc lúp xúp trên đầm, hay  làm cuộc thám hiểm luồn lách trong những hang động mát mẻ. Đó là cái thú  đặc biệt khi tới thăm khu bảo tồn thiên nhiên Vân Long. Du khách nước  ngoài thích ngồi trên chiếc xe du lịch bò kéo thủng thẳng ra bến đò,  thích cái tĩnh mịch chiều quê, khung cảnh bình yên của bến đò nơi đây  cũng như những sản phẩm đan lát, thêu thủ công được bày bán trên đường  ra bến đò. Từ đầm Vân Long, họ có thể ghé nhiều điểm du lịch cách đó  không xa như: suối nước nóng Kênh Gà, cây thị 600 năm tuổi, thăm chùa  Chi Lễ, đến chùa Mai Trung, đền thờ Lê Khả Lăng, đền đức Thánh Ngọ, đền  Thánh Mẫu thờ tứ vị Hồng Nương, thăm chùa Thanh Sơn Tự ở lưng chừng núi,  chùa Tập Ninh, thăm bức tranh đá ở vách núi Mèo Cào...
Đến đền vua  Đinh Tiên Hoàng ở xã Gia Phương là du khách đã về với quê hương của  người anh hùng thế kỷ thứ X. Nơi chứa đựng nhiều huyền thoại về một thời  thơ ấu của Đinh Bộ Lĩnh - nơi mà xưa kia Vua và các bạn cùng làng đã  từng chăn trâu cắt cỏ từ thưở hàn vi như Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Trịnh  Tú, Lưu Cơ ... để nuôi trí lớn và làm lên sự nghiệp lẫy lừng. Đinh Tiên  Hoàng chính là vị hoàng đế tiên phong mở nước với nhiều công lao vĩ đại:  Thống nhất giang sơn, mở nước, lập đô, đổi xưng hoàng đế. Ông còn là vị  Vua Việt Nam đầu tiên đưa phật giáo VN trở thành quốc giáo, là người  đầu tiên cho phát hành tiền Việt và xây dựng các công trình văn hóa lớn  như đền Hùng, đền Gióng Sóc Sơn. Kinh đô Hoa Lư là đất tổ của sân khấu  chèo, để rồi nó được trả về với nông dân khi một người lính Mông Cổ bị  bắt và phát triển rực rỡ để trở thành nghệ thuật sân khấu tiêu biểu nhất  của Việt Nam. Khác với các đền thờ Đinh Bộ Lĩnh trên khắp VN như đền  Quảng Lạc (Lạng Sơn), đền Lăng (Hà Nam), đền Đinh Tộc (Đà Nẵng), đền Yên  Thắng (Nam Định) hay đền Cao Phong (Đăk Lăk) - đền thờ Đinh Bộ Lĩnh ở  Gia Phương còn thờ những người bạn Vua từ thưở hàn vi và sau này họ vẫn  là những vị quan trung thần tuẫn tiết của buổi đầu lập quốc Đại Việt.

Trong số những danh nhân Gia Viễn, Đức Định Quốc Công Nguyễn Bặc có một  vai trò lịch sử đặc biệt. Ông là Thủy Tổ của dòng họ Nguyễn Việt Nam.  Thuở thiếu thời, ông chăn trâu tập trận cờ lau, kết nghĩa đào viên với  Đinh Bộ Lĩnh và Đinh Điền, cùng lớn lên bên dòng sông Hoàng Long yên ả.  Tương truyền ông rất giỏi võ và có sức khẻo phi thường. Tính tình ông  thẳng thắn, bộc trực và nghĩa hiệp, luôn luôn bênh vực kẻ yếu. Vào thế  kỷ thứ X, đất nước rơi vào tình trạng cát cứ của 12 sứ quân. Lúc này,  ông đã 30 tuổi, cùng Đinh Bộ Lĩnh đem binh lực về Hoa Lư, cố thủ vững  chắc và liên tiếp tấn công các sứ quân khác để gây thành thế. Ông với  Đinh Bộ Lĩnh không khác gì Quan Vân Trường với Lưu Bị. Khi xông pha trận  mạc ông đều đi đầu để ngăn chận mọi nguy hiểm có thể xảy ra cho Đinh Bộ  Lĩnh. Có lần Đinh Bộ Lĩnh bị sa vào hiểm địa lại bị trúng tên ngã ngựa,  ông một mình một gươm, cõng bạn trên lưng, leo lên núi đá dựng đứng để  thoát vòng vây. Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng Đế, đặt quốc hiệu là Đại Cồ  Việt, đóng đô ở Hoa Lư. Sau đó, nhà vua định cấp bậc các quan văn võ,  tăng đạo và phong chức tước cho các quan. ông được phong tước Định Quốc  Công, xếp hàng đầu các công thần. Khi Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn bị  sát hại. Ông cùng đình thần tìm bắt Đỗ Thích đem giết rồi cùng Đinh Điền  và Lê hoàn tôn Vệ Vương Đinh Toàn lên ngôi. Ông và Đinh Điền làm Phụ  Chính đại thần, Lê Hoàn làm Nghiếp Chính. Sau đó Lê Hoàn được sự giúp đỡ  của Thái Hậu Dương Vân Nga, tự do ra vào cung cấm và muốn đoạt ngôi  vua. Hay tin, ông cùng Đinh Điền-lúc bấy giờ đang đóng quân ở Châu Ái  (Thanh Hoá) - đem binh về triều hỏi tội, Lê Hoàn đưa thư phân lẽ thiệt,  hơn và muốn ông hợp tác lập nên một triều đại mới. Ông đọc xong, xé thư  mắng "Bặc này là bậc đại trượng phu đầu đội trời, chân đạp đất, cả đời  chỉ biết thờ một vua sống không đổi lòng, chết không đổi dạ. Ta không  bao giờ chịu bẩn tai nghe lời tà ngụy của đứa tiếm ngôi. Hãy về nói lại  với chủ ngươi, ta quyết lấy máu hắn để tắm rửa cho ngôi báu nhà Đinh."  Sứ giả về thuật lại và tỏ ý ngạc nhiên trước sự giận dữ của ông. Lê Hoàn  nghe xong, buồn rầu nói :"Nếu Nguyễn Bặc không như vậy mới là điều làm  ta ngạc nhiên". Điều này chứng tỏ trong thâm tâm, Lê Hoàn rất trọng khí  tiết của ông. Lê Hoàn bèn cử đại binh chận đánh. Đinh Điền bị tử trận,  Ông bị bắt đem về Hoa Lư và bị hại. Ông mất ngày 15 tháng 10 năm Kỷ mão  thọ 56 tuổi cùng với Đinh Điền, là những người cùng năm sinh, năm mất  với Vua Đinh. Sử gia Ngô Sĩ Liên bình luận trong Đai Việt Sử Ký Toàn  Thư: "Lê Hoàn là đại thần khác họ, tay nắm binh quyền, lại mong làm việc  như Chu Công, thường tình còn nghi ngờ huống chi Nguyễn Bặc ở chức Thủ  Tướng và Đinh Điền là đại thần cùng họ với Vua, việc khởi binh ấy không  phải làm loạn mà là một lòng phò tá họ Đinh, đánh không được mà chết,  cái chết ấy là đúng chỗ..."
Đức Thủy Tổ Nguyễn Bặc là một vị đại  công thần suốt đời hy sinh cho người bạn kết nghĩa là Đinh Tiên Hoàng,  khí tiết hiên ngang, sẵn sàng lấy cái chết để bảo vệ nhà Đinh. Hơn một  ngàn năm trôi qua, gốc đại cổ thụ họ Nguyễn từ cái nôi Đại Hữu, Gia Miêu  đâm chồi xanh tươi lan khắp mọi miền, con cháu Ông lập nên hàng trăm  chi phái hậu duệ, từ Bắc chí Nam, mười thế kỷ ấy đã xuất hiện nhiều danh  nhân lịch sử Nguyễn Quốc, Nguyễn Nộn, Nguyễn Đức Trung, Nguyễn Văn  Lang, Nguyễn Hoằng Dụ, Nguyễn Cam, các chúa Nguyễn, các vua triều Nguyễn  hoặc các nhà thơ: Nguyễn Thuyên, Nguyễn Phi Khanh, Nguyễn Trãi, Nguyễn  Gia Thiều, Nguyễn Du, Tùng Thiện Vương, Tuy Lý Vương... Ông xứng đáng là  niềm vinh dự và tự hào của quê hương Gia Viễn, Ninh Bình.
Khó có  thể lột tả hết được những vẻ đẹp thiên nhiên và văn hóa của vùng quê  gia Viễn Ninh Bình. Mảnh đất ken đầy danh thắng và những di tích lịch sử  gắn bó với những danh nhân xuất chúng. Một vùng quê tiêu biểu trên đất  cố đô địa linh – nhân kiệt của dân tộc Việt Nam. Nhưng chúng ta tin  rằng, những lợi thế đó sẽ là tiềm năng và vận hội lớn để mảnh đất này  vươn lên bằng chính nội lực và sức bật to lớn của mình. Gia Viễn - một  vùng quê nhân kiệt đang vững bước đi lên.
DỤC THÚY SƠN  (núi non nước)- NINH BINH

 Đây là trường hợp hiếm có, không phải núi non, hang động nào được xếp loại danh thắng cũng có chuyện khắc thơ nhiều đến như vậy.




Đó là núi Non Nước, Ninh Bình có tên cổ là Dục Thúy Sơn, nghĩa là "con chim chả” tắm bên dòng sông nước bạc, cao trên 100m. Núi nằm ở vị trí ngã ba sông, giao giữa sông Vân với sông Đáy. Hàng trăm năm trước, chân núi bị sóng biển bào mòn, khoét thành một hõm sâu, từ xa nhìn lại, núi giống như một mái hiên hình vòm cuốn che rợp cả một khoảng sông xanh.

Nui Bai Tho
Núi bài thơ làm say lòng biết bao du khách

Nổi tiếng với hơn 40 bài thơ khắc trên vách núi của các danh nhân lịch sử. Nằm nghiêng mình bên ngã ba sông Đáy sông Vân của thành phố Ninh Bình, Dục Thuý không chỉ là “cảnh tiên nơi cõi tục” mà còn là núi thơ với “thơ phú anh hoa đầy vách gấm” làm mê hồn bao du khách.

Xưa, Dục Thuý Sơn, không chỉ là một cảnh đẹp mà còn là một cứ điểm quân sự lợi hại, kiểm soát đường giao thông thuỷ bộ Bắc-Nam. Nằm ở vị trí trọng yếu kiểm soát đường giao thông thủy, bộ Bắc Nam, tại đây đã diễn ra nhiều trận chiến ác liệt trong các cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ của dân tộc, gắn liền với tên tuổi của các chiến sĩ cách mạng trẻ tuổi như Lương Văn Tụy, Giáp Văn Khương.

Kể từ sau bài thơ khắc núi của Trương Hán Siêu, nhiều người còn biết đến ngọn núi này, như một ''núi thơ''. Nhiều tao nhân mặc khách mỗi khi đến nơi này, đều đề thơ khắc núi.

Giờ đây, trên núi Dục Thuý có tới hàng trăm bài thơ đề trên các vách đá của các danh nhân xa xưa như Lê Thánh Tông, Trương Hán Siêu, Phạm Sư Mạnh, Ngô Thì Sỹ, Nguyễn Trãi...

Đặt chân tới Dục Thuý Sơn là đến với bảo tàng thơ Hán Nôm - một bảo tàng thi ca của tạo hoá rất sống động và phong phú giữa đất trời. Dục Thuý là núi thơ - một tuyển tập thơ có một không hai ở đất nước ta, chứa đựng những bài thơ có một không hai ở đất nước ta, chứa đựng những bài thơ hay trong bảy thế kỷ qua.

bai thotho khac tren vach nui
Nằm nghiêng mình bên ngã ba sông Đáy, sông Vân. Dục Thuý (Ninh Bình) không chỉ là “cảnh tiên nơi cõi tục” mà còn là núi thơ với “thơ phú anh hoa đầy vách gấm”

Vào đời Trần, Trương Hán Siêu tự là Thăng Phú, hiệu là Đôn Tẩu - người con của đất Ninh Bình đã khởi tạo nên bảo tàng thơ này, khai sinh ra truyền thống khắc thơ vào núi đá.

Bài thơ đầu tiên ông khắc vào vách núi có tên là Núi Dục Thuý ngợi ca vẻ đẹp của núi và khát vọng tha thiết muốn trở về với quê hương vì sự quyến rũ của phong cảnh Dục Thúy tươi đẹp:
     Non xanh xanh vẫn như xưa
  Du nhân đi mãi vẫn chưa thấy về!
     Sóng in bóng tháp bồ-đề
  Mở toang cửa động liền kề chân mây.

Cho đến nay, người ta đã tìm thấy trên dưới 40 bài thơ được khắc trên sườn Non Nước với nhiều thể loại khác nhau, nhiều nhất là loại thơ 4 chữ - tứ tuyệt, ngũ ngôn - năm chữ, tám câu - bát cú, thất ngôn - bảy chữ. Những bài thơ đều thiên về tả cảnh, tả tình gửi gắm niềm tâm sự riêng tư, suy ngẫm về sự hưng vong và nhân tình thế thái… Tác giả của những bài thơ nổi tiếng ấy thường là các bậc đế vương, các danh nhân đất nước như: Trần Nhân Tông, Lê Hiền Tông, Phạm Sư Mạnh, Trương Hán Siêu, Nguyễn Du, Ngô Thi Sĩ…

Bất luận thời gian, trải qua bao độ phong sương, mưa nắng của đất trời, những bài thơ chữ Hán, chữ Nôm, nét chữ to, nét chữ nhỏ, khắc trên vách núi vẫn còn in rõ như mới hôm qua.

Những tác phẩm thơ khắc trên đá như những tác phẩm điêu khắc tạo hình hoàn chỉnh cho cái đẹp của núi, cuốn hút du khách lòng không muốn rời, chân không muốn bước để say trong cảnh núi sông tuyệt mỹ.

Dục Thúy Sơn soi mình vào trong dòng nước, cần mẫn thường ngày, lắng đọng từng ngày những câu chuyện kể của chính mình một cách bí ấn. Và đó chính là lời gọi mời du khách viếng thăm...



  Đây là  bài thơ chữ Hán trong di sản tinh thần của Nguyễn Trãi viết về một danh thắng của Ninh Bình.

Phiên  âm Hán Việt:


Tiền niên lũ vãng hoàn.
Liên hoa phù thủy thượng,
Tiên cảnh trụy trần gian.
Tháp ảnh trâm thanh ngọc,
Ba quang kính thúy hoàn.
Hữu hoài Trương Thiếu Bảo,
Bi khắc tiển hoa ban.

Dịch nghĩa:


Năm xưa (ta) từng lui tới đây nhiều lần.
(Núi tựa như) đóa hoa sen nổi trên mặt nước,
Như cảnh tiên rơi xuống cõi trần.
Bóng ngọn tháp (trên núi trông giông như) cái trâm bằng ngọc xanh,
Ánh sáng (lấp lánh trên) sóng nước tựa như gương soi mái tóc xanh biếc.
Nhớ ông Thiếu Bảo người họ Trương,
Bia khắc (của ông) đã. lốm đốm hoa rêu.

Dịch thơ:




Từng qua lại mấy phen

Cảnh tiên rơi cõi tục

Mặt nước nổi hoa sen

Bóng tháp hình trâm ngọc

Gương sông ánh tóc huyền

Nhớ xưa Trương Thiếu Bảo

Bia khắc dấu rêu hoe



Thơ chữ Hán trong 
Dịch nghĩa:
Năm xưa (ta) từng lui tới đây nhiều lần.
(Núi tựa như) đóa hoa sen nổi trên mặt nước,
Như cảnh tiên rơi xuống cõi trần.
Bóng ngọn tháp (trên núi trông giông như) cái trâm bằng ngọc xanh,
Ánh sáng (lấp lánh trên) sóng nước tựa như gương soi mái tóc xanh biếc.
Nhớ ông Thiếu Bảo người họ Trương,
Bia khắc (của ông) đã. lốm đốm hoa rêu.
Dịch thơ:
Từng qua lại mấy phen
Cảnh tiên rơi cõi tục
Mặt nước nổi hoa sen
Bóng tháp hình trâm ngọc
Gương sông ánh tóc huyền
Nhớ xưa Trương Thiếu Bảo
Bia khắc dấu rêu hoen.












Ninh Bình quê tôi
----------*&*----------
Quê hương sơn thủy bao la
Non xanh nước biếc, chim ca thanh bình
Bóng chùa Non Nước* lung linh
Sông Vân, Núi Thúy*… mang hình quê hương
Cánh Diều* lộng gió muôn phương
Trường yên,bái đính hiên ngang giữa trời
Ông cha gìn giữ núi sông
Khai sinh lập nghiệp quê hương Ninh Bình
Cây đa, giếng nước sân đình
Trăng treo sáng tỏ thắm tình yêu thương
Quanh co đồi, núi chập trùng
Màn xanh trải mượt, mùa vàng mênh mông
Danh lam Bích Động, Cúc Phương* …
Ngàn năm văn hiến, non sông huy hoàng
Hoa Lư* thành cổ thiêng liêng
Cố đô sống mãi, sử vàng khắc ghi
Bắc - Nam chung giọt lạc hồng
Cùng nhau giữ nước chống phường xâm lăng
Muôn dân già, trẻ đồng lòng
Tam Điệp* “thần tốc” vang lừng chiến công
Ninh Bình xứng với non sông
Người người, lớp lớp chiến trường xông pha
Ngàn năm vang mãi bài ca
Giang sơn một dải, trường ca hào hùng
Mãi ơn các bậc Cha, Ông
Đời đời ơn Mẹ, cho dòng sữa trong
Ninh Bình nối tiếp chiến công
Niềm vui đổi mới mở mang quê mình
Thanh xuân tung cánh trời xanh
Trường ca nắng mới, quân hành bay xa
Đất trời non nước của ta
Quê hương mái ấm nở hoa ơn Người.
-------------          

Thứ Ba, 15 tháng 7, 2014






Ca dao Ninh Bình




Người Ninh Bình cần cù trong đời sống lao động và tài hoa trong cách thể hiện đã lưu truyền một khối lượng lớn ca dao phong phú. Ngoài những câu ca dao được lưu truyền ở nhiều nơi, người Ninh Bình đã sáng tác những câu ca dao riêng vừa hòa vào trong kho ca dao chung của dân tộc, vừa giữ lại nét tài hoa và đằm thắm riêng biệt của mình. Bà đề tài nổi bật được thể hiện trong ca dao Ninh Bình là: Tình yêu quê hương đất nước, tình lứa đôi và tình cảm gia đình.
Tự hào về quê hương, người dân Ninh Bình đã có những lời giới thiệu duyên dáng về mảnh đất Ninh Bình như sau:

Ai về qua đất Ninh Bình
Mà xem phong cảnh hữu tình nên thơ.
Nước non, non nước như mơ, 
Càng nhìn Dục Thúy càng ngơ ngẩn lòng.

Dân gian còn mượn lời chàng trai để nói một cách thiết tha với người yêu mình về quê hương tươi đẹp:

Mình về đường ấy thì xa
Để anh bắc cầu sông Cái đi qua Ninh Bình
Đất Ninh Bình có chùa non nước
Núi Phi Diên, Hồi Hạc xung quanh
Em về em chớ quên anh

Tình yêu quê hương ở đâu cũng vậy, không chỉ là niềm tự hào về cảnh đẹp của non sông mà còn là niềm tự hào về lịch sử, truyền thống của cha ông. Đất Ninh Bình là nơi sinh ra một vị vua tài giỏi, người có công tạo lập một triều đại độc lập và tự chủ trong lịch sử dân tộc. Đây là nơi có Cố đô Hoa Lư của hai triều vua Đinh - Lê, là nơi khởi nghiệp lớn của Nhà Lý, nơi này từng định liệu kế sách, tập hợp nghĩa binh anh hùng hào kiệt dẹp loạn 12 sứ quân, dựng nền chính thống, là nơi xuất phát các đạo hùng binh phá Tống Bình Chiêm. Non nước ấy,trong lòng mỗi người dân Ninh Bình và cả người dân tộc cả nước đẹp như mợt bản anh hùng ca. Ca dao ở đây đã thể hiện niềm tự hào đó, khi thì bằng những lời nhắn nhủ:

Ai là con cháu Rồng Tiên
Tháng hai mở hội Trường Yên thì về
Về thăm đô cũ Đinh - Lê
Non Xanh, nước biếc bốn bề như tranh.

Khẳng định là những câu dặn dò:

Dù ai buôn đâu, bán đâu
Nhớ ngày mở hội rủ nhau mà về
Dù ai bận rộn trăm nghề
Tháng hai mở hội thì về Trường Yên

Bên cạnh những câu ca dao tràn đầy niềm tự hào về non sông và lịch sử, là những lời chan chứa về tình cảm về cuộc sống lao động hàng ngày. Người Ninh Bình đã từ đời nay qua đời khác vật lộn với những khó khăn khắc nghiệt của thiên nhiên để sinh tồn, đã dặn dò con cháu mình bằng những câu ca dao rất thấm thía:

Quê ta đồng trắng, nước trong
Lúa gạo thì ít, rêu rong thì nhiều
Dặn con phải nhớ lấy điều
Muốn cho no ấm phải sớm chiều siêng năng

Nhận thức được khó khăn và điều kiện sống, người Ninh Bình đã có ý thức sâu sắc về sự tự nguyện, chăm chỉ trong công việc đồng áng hàng ngày cà giá trị lao động đó mang lại:

Rạng ngày vác cuốc ra đồng
Tay cầm mồi lửa tay thòng sừng trâu
Ruộng đầm nước cả bùn sâu
Suốt ngày cùng với con trâu cày bừa
Việc làm chẳng quản nắng mưa
Cơm ăn để đổi muối dưa qua ngày.

Chính những cái nền tảng đạo đức lấy giá trị lao động làm chuẩn mực đó, con người nơi đây đã bộc lộ quan điểm thẩm mỹ của mình. Cô gái Ninh Bình bộc bạch những suy nghĩ hết sức giản dị về bản thân mình:

Em là con gái đồng chiêm
Gieo mạ cấy lúa, lại thêm trồng màu
Ươm tơ, dệt vải nhuộm màu
May áo bền chắc theo trâu cày bừa

Trong cuộc sống lao động vất vả, con người cần chung lưng đấu cật chia sẻ, cảm thông. Người con trai đồng chiêm Ninh Bình đã có sự đồng cảm sâu sắc với các cô gái chân chất và họ đã có những câu ca dao bày tỏ tình cảm rất mộc mạc:

Rủi riu anh đẩy anh đun
Được tôm, được tép sớm hôm nhọc nhằn 
Nhọc nhằn anh chẳng ngại ngùng
Chỉ thương em ở phòng không một mình.


Hoặc những câu ca dao trữ tình nói về sự chia sẻ vất vả nhọc nhằn trong lao động:

Anh lên Tam Điệp, anh men non Trình
Củi than nhem nhuốc với tình
Ghi lời vàng đá xin mình chớ quên.



Từ sự đồng cảm đó mà con trai, con gái Ninh Bình đã cùng chung sức xây dựng cuộc sống:

Kể chi trời rét đồng sâu
Có chồng có vợ rủ nhau đi bừa
Bây giờ trời đã hồ trưa
Chồng vác lấy cày, vợ dắt lấy trâu.
Một đoàn chồng trước vợ sau
Trời rét mặc rét, đồng sâu mặc đồng


Bên cạnh đó còn có sự tinh nghịch trong ca dao Ninh Bình:

Anh là con trai Hải Phòng
Chạy tàu phỉ hổ ở trong Ninh Bình
Thấy em duyên dáng tương xinh
Anh thuận nhân tình, anh nắm cổ tay
Nắm rồi khẽ lắc cổ tay
Anh hỏi câu này: có lấy anh không

Ca dao đã thể hiện được nhiều chiều cảm xúc của con người, đó là lòng yêu quê hương, đất nước nồng nàn. là chiều sâu thẳm trong tình cảm lứa đôi, sự gắn bó sâu nặng với lao động, trong mối quan hệ xã hội.


Món cuốn Tôm hành

Có lẽ ở đâu cũng có món cuốn, nhưng với mỗi vùng miền món cuốn lại có những đặc điểm riêng biệt, những gia vị phù hợp với từng sở thích và phong tục mỗi nơi. Với vùng đất Ninh Bình, món cuốn không những chỉ là món cổ truyền trong mâm cỗ ngày tết mà còn là món ngon để thiết đãi khách quý.


Món cuốn tôm hành Ninh Bình bao gồm các thành phần như: Tôm, thịt, trứng, hành rau răm, rau mùi.
Món có ngon và đặc sắc hay không thì khâu chọn nguyên liệu cũng hết sức cần thiết. Hành là nguyên liệu chính bởi ngoài cái vị thơm của củ hành thì lá hành có nhiệm vụ để cuốn những nguyên liệu khác bởi thế mà hành phải có độ dài vừa phải không ngắn quá, không dài quá, để cho miếng cuốn vừa miệng và cũng đủ độ chặt. Lá hành phải dai, trần vừa đủ để có độ ngọt.  Nhờ có hành mà món ăn sẽ không bị ngán.
Tiếp đó là đến Tôm, phải là loại tôm đồng vừa phải không to quá, không bé quá, tôm phải tươi để khi chín sẽ có màu đỏ tươi để nổi bật giữa màu xanh của rau và hành. Trứng gà tráng mỏng, thịt ba chỉ luộc cắt ngắn vừa với kích thước của tôm.


Người cuốn cũng cần có sự khéo léo sắp xếp sao cho các màu xanh của rau, màu đỏ của tôm màu trắng của thịt và màu vàng của trứng xen kẽ nhau. Chính những màu sắc bắt mắt rực rỡ ấy khiến ta mới nhìn thôi đã thấy mê rồi. Không chỉ màu sắc mà mùi thơm của các thành phần cũng quyện lại với nhau tạo nên một mùi thơm phưng phức khiến ai cũng muốn ăn.
Món cuốn được chấm với nước chấm chanh ớt sẽ có vị đậm đà của mắm, vị ngậy béo của thịt, trứng, dai giòn của tôm hành thêm chút thơm của rau mùi và răm sẽ khiến bạn ngất ngây ngon không tả nổi và ăn mãi không ngán.


Một số nhà hàng làm món này có thể thay một số nguyên liệu như thay rau mùi bằng rau xà lách, tuy vậy nhưng hương vị của món ăn sẽ không thay đổi bởi nguyên liệu chính là tôm thịt hành trứng vẫn còn đầy đủ.
Đến Ninh Bình bạn không nên bỏ qua món này, hãy thưởng thức cảm nhận và cho nhận xét bạn nhé!


Mắm Cáy - Đặc Sản Kim Sơn


Nước mắm cáy, thứ mắm nửa như xanh, nửa như nâu màu đất đồng chiêm trũng được làm từ chính những con cáy.

Cáy sau khi đã được làm sạch, để một lúc cho ráo nước thì tới công đoạn bóc hết phần yếm. Và bóc lớp trứng ở những con cáy cái. Trứng cáy mà đem chưng với hành khô và mỡ thì thơm ngon, béo ngậy. Trứng cáy rất bổ và thơm.

Sau khi cáy được lột yếm, bóc trắng, người ta bỏ vào cối đá giã cho thật nhuyễn. Sau đấy thì trộn muối, bóp kỹ trước khi cho vào lọ sành hay chum vại ủ kín. Lọ mắm cáy mới giã đem để chỗ kín nhưng phải là nơi khô ráo, thoáng mát. Cỡ độ mươi ngày sau, gặp lúc trời nắng, đem lọ mắm cáy ra sân phơi. Ban ngày phơi nắng, đêm đến phơi sương. Lọ mắm phơi chừng một tuần, khi biết đã ngấu là lúc người ta trộn thính gạo. Trộn cùng với thính gạo là một ít men rượu thật ngon. Men rượu có tác dụng khử cho bằng hết mùi hôi của cáy và cũng tạo mùi thơm quyến rũ cho thứ nước mắm cáy sau này.

Thêm chú thích

Mắm cáy chỉ thật ngon khi ăn với ngọn rau lang luộc. Ngọn rau lang luộc mà lại đem chấm với nước mắm cáy mới là đúng kiểu. Nhưng nếu bát mắm cáy mà thiếu vài nhánh tỏi đập dập thì coi như chưa biết ăn. Ngắt những ngọn rau khoai lang về, rửa sạch, chờ nồi nước sôi thả vào vừa lúc chín tới gắp ra đĩa. Bữa cơm có đĩa rau lang luộc chấm với nước mắm cáy pha một chút tỏi, chút ớt tươi thì thật không gì thú vị bằng.

Mắm tép gia viễn


Mắm tép Gia Viễn là huyện đồng chiêm trũng, nên người dân Gia Viễn có nghề riu tép từ lâu. Người ta dùng tép riu để làm mắm, gọi là mắm tép. Tép riu phải là tép già, thân tròn, nhỏ con, màu xanh lam. Điều quan trọng nữa là tép phải tươi, đem rửa sạch, để khô.
Sau đó lấy thính gạo rang vàng, giã nhỏ, cùng với muối trộn đều với tép theo tỷ lệ, bỏ vào hũ, có thể đổ thêm ít nước đã đun sôi để nguội, rồi bịt kín, để từ một tháng trở lên mới đem nấu chín ăn. Bát mắm tép được múc ra màu đỏ tươi, có mùi thơm ngọt, rất hấp dẫn. Người ta có thể rang mắm tép với thịt ba chỉ. Ăn mắp tép Gia Viễn không cần cho thêm bột ngọt, vẫn có vị ngon ngọt, đậm đà. Ngày nay mắm tép Gia Viễn đã trở thành món ăn đặc sản của các bữa tiệc khi có thêm đĩa rau luộc ngon


Design by quachlinh | Du lịch khám phá ninh binh